Nữ trinh tử – đặc điểm và cách dùng
Nữ trinh tử kết quả vào mùa hè, kỳ kết trái rất dài, treo lủng lẳng trên cành cho đến mùa đông, dần dần chuyển từ đỏ sang tím, rồi từ tím chuyển sang đen. Đến tiết Đông chí, thời tiết đã rất lạnh, mới thu hái.

Nữ trinh tử có thể đem phơi khô trực tiếp, cũng có thể hấp rượu rồi phơi khô. Hấp qua rượu sẽ giúp quá trình phơi khô nhanh hơn.
Nữ trinh tử bản tính đi xuống, nhưng khi được hấp với rượu thì khí vị bắt đầu hướng lên, có thể đi vào Phế trước rồi mới hạ hành nhập Thận.
Nữ trinh tử là một vị thuốc rất tĩnh, như chính tên gọi của nó “trinh” mang ý tĩnh lặng, trầm ổn, không hoạt bát. Khi được hấp qua rượu, nó trở nên linh hoạt hơn, giúp dễ tiêu, dễ hấp thu.
Nữ trinh tử vị khổ, cam, toan; tính bình, không hàn không nhiệt. Có công năng tư Thận, thanh nhiệt, dưỡng tinh thần. Người âm hư hỏa vượng dùng sẽ rất thích hợp; nhưng nếu không phải âm hư có hỏa, dùng có thể sinh đau bụng, tiêu chảy.
Ngoài ra, nữ trinh tử còn có tác dụng minh mục, nhuộm tóc đen. Thường được phối dùng với cúc hoa, sinh địa, tật lê, câu kỷ tử để dưỡng mắt. Sinh địa cùng nữ trinh tử đều có tác dụng thanh nhiệt, dưỡng Thận – mà Thận được dưỡng thì có thể thanh nhiệt. Nhiệt làm người hôn trầm, còn hàn khiến người thanh sáng. Dùng các vị lương dược như vậy giúp người trở nên “thanh” – một là tinh thần nhẹ nhõm, sảng khoái; hai là mắt nhìn rõ ràng hơn. Tật lê có tác dụng sơ Can; câu kỷ tử tư dưỡng Can Thận chi âm; cúc hoa bình Can, tán hỏa. Bài thuốc phối ngũ này cùng nhóm thuốc minh mục có Huyền sâm làm chủ vị, tuy khác vị nhưng nguyên lí tương đồng