Công năng huyệt vị, phân loại và ứng dụng lâm sàng

Huyệt tính là gì ? Huyệt vị châm cứu có huyệt tính hay không ? Quan hệ giữa huyệt tính và dược tính ra sao ? Dược tính hoá công năng các huyệt vị có lợi hay có hại cho sự phát triển của châm cứu ? Đó là một trong những vấn đề mà giới châm cưú trên thế giới hiện nay đang rất quan tâm.
Nhiều chuyên gia cho rằng, công năng của các huyệt vị chính là huyệt tính, đó là sự tồn tại khách quan. Huyệt tính khái quát tác dụng chủ trị của huyệt vị, nó là cơ sở và tiền đề để quyết định phạm vi chưã trị của huyệt vị. Nếu như các vị thuốc của y học cổ truyền có công năng chủ trị thì các huyệt vị châm cứu cũng vậy. Cho nên, châm cứu học hoàn toàn có thể dựa vào mô hình dược tính để quy nạp và phân loại huyệt tính. Ví như, huyệt bách hội có tác dụng chữa trị hôn mê, ngất thì tức là có huyệt tính “tỉnh não khai khiếu, hồi dương cố thoát” ; huyệt phong trì có công năng chữa cảm mạo, ù tai, cận thị…thì có huyệt tính “sơ phong giải biểu, thông nhĩ minh mục”. Ngược lại, khi biết huyệt tính của một huyệt vị thì từ đó cũng thấy được phạm vi trị liệu của huyệt vị đó. Ví như, huyệt tính của nội quan là “khoan hung lý khí, hoà vị giáng nghịch” thì có nghĩa là có thể dùng huyệt vị này để chữa các chứng hung thống, tâm quý, khái suyễn do các bệnh lý tim và phổi gây nên hoặc chữa các chứng vị thống, ác tâm, ẩu thổ, ách nghịch, phản toan…do các bệnh lý dạ dày ruột gây nên ; huyệt tính của dương lăng tuyền là “sơ can lợi đởm, thư cân thông lạc” thì có thể dùng huyệt vị này để chữa các chứng bệnh liên quan đến gan mật như viêm gan, viêm đường mật, sỏi mật, giun chui ống mật…và các bệnh lý có liên quan đến “cân” như đau thắt lưng cấp, co cứng tứ chi, lạc chẩm….Trên thực tế, giữa huyệt tính và công năng chủ trị của huyệt vị có mối quan hệ nhân quả. Nghiên cứu huyệt tính nghĩa là tìm hiểu sâu hơn về công năng của huyệt vị, để từ đó mở rộng phạm vi trị liệu và nâng cao chất lượng chọn huyệt, phối huyệt trong lâm sàng. Căn cứ vào công năng chủ trị có thể phân chia huyệt vị theo những nhóm huyệt tính cơ bản sau đây :
1. Huyệt cường tráng bảo kiện
Có thể hiểu đây là những huyệt vị có tác dụng bổ ích cho cơ thể. Đứng về giác độ trị bệnh mà nói thì những huyệt này có thể dùng cho những bệnh lý hư nhược mạn tính như cảm mạo ở người già, suy nhược thần kinh, cửu tả, cửu lỵ, di niệu, dương nuy, thiếu máu, hư suyễn, cửu khái, huyết áp thấp, thiếu sữa, sa nội tạng….Đứng về giác độ phòng bệnh thì những huyệt vị này có công dụng bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, dự phòng tích cực tật bênh, chống lão hoá và kéo dài tuổi thọ.
Các huyệt thuộc nhóm này như quan nguyên, khí hải, trung quản, đản trung, bách hội, đại chuỳ, thân trụ, mệnh môn, phong môn, phế du, tâm du, cách du, can du, tỳ du, vị du, thận du, cao hoang, túc tam lý, thái khê, phục lưu, dũng tuyền, huyết hải, tam âm giao…Thông thường, để bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, chống lão hoá thì nên sử dụng phương thức day bấm hoặc cứu các huyệt quan nguyên, khí hải, thận du, túc tam lý, dũng tuyền, tam âm giao. Day bấm mỗi ngày 1 – 2 lần, mỗi lần mỗi huyệt 5 – 10 phút, cứu mỗi ngày hoặc 2 ngày 1 lần, mỗi lần mỗi huyệt 5 – 10 phút. Nếu để trị bệnh thì phải căn cứ vào bệnh tình cụ thể và công dụng của từng huyệt vị mà lựa chọn phương thức tác động cho phù hợp.
2. Huyệt bổ khí
Là những huyệt vị có tác dụng bổ ích dương khí của cơ thể và khí của các tạng phủ. Các huyệt khí hải, quan nguyên, trung quản, đản trung, phế du, tâm du, tỳ du, vị du, thận du, mệnh môn, túc tam lý…đều thuộc vào nhóm này. Ví như, phế khí bất túc có thể chọn khí hải, quan nguyên, đản trung, phế du, túc tam lý ; tâm khí bất túc có thể chọn đản trung, tâm du, túc tam lý ; tỳ vị khí hư có thể chọn khí hải, quan nguyên, trung quản, tỳ du, vị du, túc tam lý ; thận khí bất túc có thể chọn quan nguyên, khí hải, thận du, mệnh môn, túc tam lý…
3. Huyệt bổ huyết
Là những huyệt có công năng bổ huyết như khí hải, đản trung, cách du, phế du, tâm du, can du, tỳ du, vị du, cao hoang, túc tam lý, tuyệt cốt, huyết hải, tam âm giao…Y học cổ truyền cho rằng, huyết dịch trong nhân thể là do tinh hoa hấp thụ từ cơm ăn nước uống biến hoá mà thành, vậy nên đại đa số các huyệt bổ huyết đều có liên quan đến tỳ, vị và can. Đồng thời, bổ khí có thể sinh huyết nên nhiều huyệt bổ khí cũng có tác dụng bổ huyết. Khi trị liệu huyết hư cần căn cứ vào bệnh tình cụ thể mà lựa chọn huyệt vị và phương thức tác động cho phù hợp. Ví như, huyết hư do ăn uống kém và suy dinh dưỡng nên cứu huyết hải, tam âm giao, tỳ du, vị du, túc tam lý…; huyết hư do công năng tạo huyết suy giảm nên cứu huyết hải, cách du, tâm du, can du, tỳ du, cao hoang, tuyệt cốt, túc tam lý…; huyết hư do khí hư nên cứu khí hải, đản trung, phế du, tỳ du, vị du, túc tam lý…
4. Huyệt định tâm an thần
Là những huyệt có tác dụng trấn tĩnh dùng để trị liệu suy nhược thần kinh, thất miên, kiện vong, ý bệnh (hysteria), mộng du, điên cuồng…Theo y học cổ truyền, thần chí của con người có quan hệ mật thiết với não và tâm. Với các chứng suy nhược thần kinh, thất miên, kiện vong nên dùng bách hội, an miên, tâm du, thần môn, nội quan, thái khê, dũng tuyền, tam âm giao…; với các chứng ý bệnh, mộng du, điên cuồng nên dùng nhân trung, bách hội, đại chuỳ, nội quan, thần môn, hậu khê, hợp cốc, thái xung, phong long, chiếu hải, thân mạch…
5. Huyệt tỉnh não khai khiếu
Là các huyệt có tác dụng cấp cứu trong trường hợp thần chí mê man, rối loạn ngôn ngữ, đột nhiên ngã vật, bất tỉnh nhân sự…do sốt cao, trúng thử, hạ đường huyết, động kinh, trúng phong…như các huyệt nhân trung, tố liêu, bách hội, đại chuỳ, khí hải, quan nguyên, tề trung, nội quan, thiếu thương, trung xung, hợp cốc, thái xung, ẩn bạch, đại đô, túc tam lý…
Trường hợp “bế chứng” nên châm tả hoặc chích máu nhân trung, bách hội, đại chuỳ, nội quan, thiếu thương, trung xung, hợp cốc, thái xung, ẩn bạch, đại đô ; trường hợp “thoát chứng” nên châm bổ hoặc cứu tố liêu, bách hội, đại chuỳ, khí hải, quan nguyên, túc tam lý, tề trung…
6. Huyệt hồi dương cố thoát
Là các huyệt có tác dụng thăng áp như tố liêu, bách hội, nội quan, thái khê, túc tam lý, tam âm giao. Trong đó, theo kinh nghiệm của các tác giả Trung Quốc, tố liêu là một trong những huyệt vị thăng áp hữu hiệu nhất.
7. Huyệt tư âm tiềm dương
Là các huyệt có tác dụng giáng áp như bách hội, đại chuỳ, khúc trạch, nội quan, hợp cốc, túc tam lý, tam âm giao, thái xung, dũng tuyền, thái khê…Thông thường dùng châm hoặc chích máu, cũng có khi sử dụng cứu pháp. Ví như, có tác giả đã chích máu huyệt đại chuỳ rồi dùng hoả giác cục bộ để giáng áp, kết quả khá tốt.
8. Huyệt khứ phong
Là những huyệt vị có công dụng giải trừ phong tà như phong trì, phong phủ, phong môn, phong thị, ế phong. Trên lâm sàng thường chia làm 3 loại :
– Thương phong cảm mạo : có thể là cảm mạo phong hàn hoặc phong nhiệt, thường day bấm hoặc cứu (với phong hàn), châm hoặc chích máu (với phong nhiệt) huyệt phong trì, phong phủ và phong môn.
– Trúng phong, liệt mặt : phong tà xâm phạm kinh lạc phát sinh trúng phong (trọng chứng) hoặc liệt mặt (khinh chứng), thường châm hoặc cứu phong trì, ế phong, phong thị…
– Phong thấp bệnh : do cảm thụ phong tà mà phát sinh đau khớp, tê bì chân tay…, thường chọn các huyệt đã nêu ở trên kết hợp với các huyệt vị tại chỗ, tuỳ bệnh tình cụ thể mà châm, cứu hoặc hoả giác.
Ngoài ra, một số huyệt vị khác như hợp cốc, thái xung, khúc trì, cách du, bách hội, túc tam lý cũng được coi là huyệt khứ phong.
9. Huyệt chỉ dương
Là những huyệt có tác dụng làm hết ngứa trong các bệnh lý da liễu như viêm da dị ứng, eczema, viêm da thần kinh, mày đay…và một số bệnh lý nội khoa như hoàng đản, đái đường, viêm âm đạo…Thuộc nhóm này có các huyệt khúc trì, hợp cốc, huyết hải, phong thị, túc tam lý, tam âm giao, thái xung, cách du…Thủ pháp thường dùng là châm, chích huyết và gõ kim mai hoa, một số trường hợp có thể dùng cứu pháp. Với các bệnh lý da liễu, đây là biện pháp chủ yếu, với các bệnh lý khác có vai trò hỗ trợ.
10. Huyệt thoái nhiệt
Là các huyệt có tác dụng hạ nhiệt trong các bệnh lý có sốt. Thường dùng gồm : đại chuỳ, khúc trì, hợp cốc, ngoại quan, xích trạch, khúc trạch, ngư tế, lao cung, thiếu thương, trung xung, nội đình, uỷ trung, đại đô, dũng tuyền…Thủ pháp thích hợp là châm, chích huyết hoặc gõ kim mai hoa.
Nếu sốt do cảm mạo nên châm tả hoặc chích huyết đại chuỳ, hợp cốc, khúc trạch, ngoại quan. Nếu sốt do trúng thử, viêm dạ dày ruột cấp tính, lỵ trực khuẩn…nên chích huyết khúc trì, hợp cốc, xích trạch, khúc trạch, uỷ trung, thiếu thương, trung xung, đại đô, nội đình…Nếu sốt do hư nhiệt (bệnh lao, bệnh hệ thống…) nên châm bổ đại chuỳ, xích trạch, ngư tế, thái uyên, cao hoang, lao cung, dũng tuyền ; một số trường hợp có thể cứu hoặc dán thuốc.
11. Huyệt trừ hàn
Là những huyệt có tác dụng giải trừ hàn tà, làm ấm cơ thể. Thường dùng gồm : tề trung, khí hải, quan nguyên, trung quản, mệnh môn, bách hội, đại chuỳ, túc tam lý, dương lăng tuyền, tam âm giao, thái khê, phế du, tỳ du, vị du, thận du…Thủ pháp thích hợp nhất là cứu hoặc hoả giác, ngoài ra có thể ôn châm. Nếu không có điếu ngải có thể dùng nhang hoặc điếu thuốc lá thay thế.
12. Huyệt phát hãn, chỉ hãn
Là những huyệt có tác dụng làm ra mồ hôi hoặc cầm mồ hôi. Đối với “hãn chứng”, trị liệu bằng châm cứu có những điểm khác biệt so với dùng thuốc. Nếu như thuốc phát hãn hay chỉ hãn là hoàn toàn khác nhau thì các huyệt vị trị liệu hãn chứng lại tương đồng với nhau. Tại sao lại như vậy ? Là vì cơ chế châm cứu mang tính chất điều tiết hai chiều, mục đích cuối cùng là lập lại sự cân bằng sinh lý. Các huyệt vị trị liệu “hãn chứng” là : đại chuỳ, hợp cốc, phục lưu, âm khích, hậu khê, phế du, túc tam lý…Tuỳ theo bệnh tình cụ thể mà vận dụng thủ pháp châm hay cứu cho phù hợp.
13. Huyệt chỉ khái bình suyễn
Là những huyệt có công dụng giảm ho và làm hết trạng thái khó thở do co thắt phế quản. Các huyệt chỉ khái gồm : liệt khuyết, xích trạch, thái uyên, phong long, túc tam lý, đại chuỳ, thân trụ, phế du, cao hoang, đản trung…Nếu ho do phong nhiệt thì chỉ châm mà không cứu, nếu ho do phong hàn thì có thể châm hoặc cứu, riêng xích trạch thì không nên cứu ; thân trụ, phế du và cao hoang dùng giác liệu pháp là tốt nhất.
Các huyệt bình suyễn gồm : đản trung, thiên dột, đại chuỳ, khí hải, quan nguyên, phế du, thận du, khổng tối…Nếu nhiệt suyễn thì nên châm hoặc dán thuốc đại chuỳ, thiên đột, đản trung, phế du, định suyễn, khổng tối ; nếu hàn suyễn thì nên kết hợp châm và giác các huyệt trên ; nếu hư suyễn thì nên châm và cứu kết hợp định suyễn, khí hải, quan nguyên, đản trung, phế du, thận du…
14. Huyệt kiện tỳ hoá đàm
Gồm các huyệt : trung quản, tỳ du, phế du, vị du, nội quan, phong long, túc tam lý, tam âm giao, âm lăng tuyền…, thường dùng để trị các chứng khái thấu đa đàm do viêm khí phế quản, đàm mông tâm khiếu trong các bệnh lý tâm thần kinh như hysteria, động kinh…; đàm thấp nội thịnh trong bệnh béo phì hoặc đàm thấp trở trệ trong các chứng đau nhức, tê bì và bại liệt chi thể. Nhiệt đàm và các bệnh tâm thần kinh thì chỉ châm không cứu, hàn đàm và đàm thấp trở trệ thì nên châm cứu kết hợp với giác liệu pháp.
15. Huyệt chỉ ẩu, thôi ẩu
Huyệt vị chỉ ẩu (cầm nôn) và thôi ẩu (gây nôn) là hoàn toàn tương đồng…Thường dùng gồm : nội quan, trung quản, thiên đột, kiến lý, tỳ du, vị du, cách du, túc tam lý, công tôn…Tuỳ theo bệnh tình cụ thể mà vận dụng các thủ pháp khác nhau, chỉ ẩu thủ pháp thường nhẹ, thôi ẩu thủ pháp thường mạnh. Đối với chứng ách nghịch, các huyệt vị trên cũng có hiệu quả khá tốt.
16. Huyệt kiện vị tiêu thực
Là những huyệt vị có tác dụng trợ giúp quá trình tiêu hoá thức ăn. Thường dùng gồm : trung quản, kiến lý, lương môn, thiên khu, tỳ du, vị du, nội quan, công tôn, túc tam lý, tam âm giao…Thủ pháp thông dụng là châm, day bấm hoặc gõ kim mai hoa, nếu kết quả hạn chế có thể cứu hoặc giác.
17. Huyệt chỉ tả, thông tiện
Huyệt vị chỉ tả (cầm ỉa chảy) và thông tiện (chống táo bón) là hoàn toàn tương đồng. Thường dùng gồm : trung quản, thiên khu, đại hoành, túc tam lý…Thông tiện có thể gia thêm chi câu, phong long, chiếu hải, nội đình, dùng châm hoặc day bấm ; chỉ tả có thể gia thêm quan nguyên, tỳ du, tề trung, tam âm giao, khổng tối, dùng kết hợp châm cứu và giác. Đối với chứng “ngũ canh tả” có thể dùng cứu hoặc hoả giác quan nguyên, khí hải, mệnh môn, thận du, tam âm giao, túc tam lý.
18. Huyệt lợi tiểu, tiêu thũng
Thường dùng các huyệt trung cực, quan nguyên, khí hải, tề trung, thuỷ phân, phế du, tỳ du, thận du, liệt khuyết, tam âm giao, uỷ trung, uỷ dương…Thực chứng thì dùng châm, day bấm hoặc gõ kim mai hoa ; hư chứng thì châm và cứu kết hợp quan nguyên, khí hải, tề trung, thuỷ phân, phế du, tỳ du, thận du, tâm âm giao. Với trung cực và tề trung có thể dùng liệu pháp dán thuốc (xạ hương, hành giã trộn rượu, tỏi giã…)
19. Huyệt lý tỳ điều kinh
Là những huyệt có tác dụng điều hoà kinh nguyệt. Thường dùng gồm : quan nguyên, khí hải, thiên khu, cách du, can du, tỳ du, thận du, hợp cốc, thái xung, huyết hải, tam âm giao, ẩn bạch, đại đô. Thực chứng chỉ châm không cứu, hư chứng nên kết hợp châm và cứu. Thiên khu, hợp cốc, thái xung và đại đô chỉ dùng cho chứng thực ; các huyệt khác thường dùng cho chứng hư.
20. Huyệt chỉ huyết
Là các huyệt có tác dụng cầm máu. Chảy máu mũi : nghinh hương, tố liêu, ấn đường, thượng tinh, đại chuỳ, phong trì, phong phủ, cách du, hợp cốc, thiếu thương ; chảy máu chân răng : thực chứng dùng cách du, giáp xa, hợp cốc, nội đình, lương khâu, đại lăng, lao cung, túc tam lý, chỉ châm không cứu ; hư chứng dùng cách du, giáp xa, hợp cốc, túc tam lý, thái khê, chiếu hải, dũng tuyền, phục lưu, thận du, châm kết hợp với cứu ; ho ra máu : có thể châm hoặc cứu cao hoang, cách du, phế du, xích trạch, khổng tối, thái uyên, túc tam lý ; nôn ra máu : có thể châm, cứu hoặc gõ kim mai hoa trung quản, nội quan, túc tam lý, âm khích, khích môn, cách du, vị du ; niệu huyết châm quan nguyên, trung cực, cách du, thận du, bàng quang du, túc tam lý, tam âm giao, âm lăng tuyền ; tiện huyết châm khổng tối, thừa sơn, tam âm giao, túc tam lý, cách du, trật biên, mệnh môn, yêu dương quan.
21. Huyệt định kính
Là những huyệt có tác dụng chống co giật. Co giật do sốt cao : châm tả hoặc chích huyết nhân trung, đại chuỳ, hợp cốc, khúc trì, trung xung, thái xung ; trẻ em kinh phong : châm tả hoặc day bấm mạnh nhân trung, thừa tương, ấn đường, bách hội, đại chuỳ, can du, hợp cốc, thái xung ; co giật thần kinh mặt : châm tứ bạch, dương bạch, quyền liêu, phong trì, hợp cốc, hậu khê, thái xung ; động kinh và ý bệnh : châm tả hoặc day bấm mạnh nhân trung, bách hội, đại chuỳ, hợp cốc, hậu khê, thái xung ; co cứng do viêm màng não hoặc uốn ván : châm tả nhân trung, bách hội, đại chuỳ, cân súc, hợp cốc, hậu khê, thái xung, dương lăng tuyền.
22. Huyệt trấn thống
Là những huyệt có tác dụng sơ thông kinh lạc, hành khí hoạt huyết, tiêu thũng chỉ thống. Đầu thống : vùng trán dùng ấn đường, thượng tinh, bách hội, toản trúc, hợp cốc, nội đình ; đau nửa đầu : dùng thái dương, ty trúc không, dương bạch, đầu duy, phong trì, ngoại quan, túc lâm khấp ; đau sau gáy dùng thiên trụ, phong trì, bách hội, toản trúc, hậu khê, côn lôn ; đau đỉnh đầu dùng bách hội, thượng tinh, ấn đường, toản trúc, phong trì, thái xung, dũng tuyền ; đau toàn đầu dùng bách hội, phong trì, ấn đường, thái dương, hợp cốc, ngoại quan, côn lôn ; đầu thống nên châm, day bấm hoặc chích huyết tuân thủ hư bổ thực tả. Nhãn thống : nên châm, day bấm hoặc chích huyết thái dương, toản trúc, ty trúc không, phong trì, hợp cốc, thái xung, quang minh, nội đình. Nha thống : hàm trên châm tả hoặc day bấm mạnh giáp xa, địa thương, nội đình, hạ quan, thái dương ; hàm dưới châm tả giáp xa, địa thương, hợp cốc, nhị gian, thừa tương ; hư hoả nha thống châm giáp xa, hợp cốc, chiếu hải, dũng tuyền. Hầu thống : châm tả, day bấm mạnh hoặc chích huyết thiếu thương, ngư tế, hợp cốc, nội quan, liệt khuyết, chiếu hải. Hung thống : châm tả hoặc day bấm mạnh đản trung, cự khuyết, nội quan, khích môn, đại lăng, thân trụ, phế du, tâm du, quyết âm du, cách du, túc tam lý, khâu khư. Nhũ thống : châm tả đản trung, nhũ căn, lương khâu, hợp cốc, thái xung, kiên tỉnh, túc tam lý,nội quan. Hiếp thống : châm tả, day bấm mạnh hoặc hoả giác kỳ môn, nhật nguyệt, a thị huyệt, chi câu, ngoại quan, dương lăng tuyền, thái xung, khâu khư, tuyệt cốt. Vị thống : chứng thực châm tả trung quản, lương môn, chí dương, nội quan, công tôn, lương khâu, túc tam lý, nội đình ; chứng hư , châm bổ, cứu hoặc giác trung quản, lương môn, tỳ du, vị du, túc tam lý. Phúc thống : chứng thực châm tả trung quản, thiên khu, quan nguyên, túc tam lý, thượng cự hư, hạ cự hư ; chứng hư cứu hoặc hoả giác trung quản, thiên khu, quan nguyên, khí hải, tề trung, túc tam lý, tam âm giao ; tề trung có thể đắp muối sao, sinh khương hoặc hành giã sao rượu. Thống kinh : dùng quan nguyên, khí hải, trung cực, thiên khu, tam âm giao, địa cơ, tỳ du, thận du ; thực chứng châm tả, hư chứng châm bổ hoặc kết hợp châm và cứu. Yêu thống : thực chứng châm tả thận du, yêu nhãn, yêu dương quan, uỷ trung, nhân trung, hậu khê, côn lôn ; hư chứng châm bổ hoặc cứu, giác mệnh môn, thận du, khí hải, quan nguyên, uỷ trung, thái khê.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *